Chương 1: Tổng quan về da
1.1. Chức năng sinh lý da
Là cơ quan đa nhiệm vụ lớn nhất, nên da đảm đương nhiều chức năng quan trọng khác nhau đối với sức khỏe của chúng ta. Da không phải chỉ là một màng bọc đơn thuần, mà là một cơ quan có nhiều vai trò quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với đời sống con người. Ngoài ra, da còn liên quan mật thiết đến các bộ phận khác trong cơ thể. Da có nhiệm vụ cách ly giữa nội môi và ngoại môi, giữ cho nội môi tương đối hằng định trong khi ngoại môi luôn biến đổi. Do đó, sự toàn vẹn, lành mạnh của da là yếu tố cần thiết để đảm bảo sức khỏe chung.
Hình 1.1. Cấu tạo lớp biểu bì và chức năng của da
Các chức năng của da:
- Chức năng bảo vệ.
Chức năng nội tiết – tự tổng hợp vitamin D.
- Chức năng bài tiết của da.
- Da góp phần tạo nên vẻ đẹp cho mỗi người.
- Da thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận cảm giác.
Da còn có chứa các tế bào miễn dịch tốt, để có thể hỗ trợ cơ thể chống lại bệnh tật.
Da là lớp “rào chắn” hữu hiệu để chống các tác nhân có hại từ bên ngoài (vi sinh vật, hóa chất, vật lý) xâm nhập vào cơ thể.
Da là một “hàng rào” bảo vệ các cơ quan sâu như: thần kinh, mạch máu, cơ xương, phủ tạng khỏi các tác hại của các yếu tố cơ học, lý học, hóa học, vi khuẩn có hại.
Nhờ có cấu trúc rất chặt chẽ của lớp malpighi được tăng cường do các cầu nối giữa các tế bào, nhờ vùng tiếp giáp trung – thượng bì vững chắc, nhờ sự đàn hồi vừa dẻo vừa chắc của các sợi tạo keo, sợi liên kết ở trung bì, nhờ lớp mỡ đệm dưới da nên da có thể chống lại các chấn thương, xây xát từ ngoại cảnh (da chịu được một áp lực 1,8 kg/mm2).
Trên bề mặt thượng bì còn có lớp mô mỡ gồm chủ yếu là acid béo triglixerit, cholesterol, chất bã, làm cho da không bị ẩm quá hoặc khô quá tạo khả năng chống đỡ với những thay đổi đột ngột về nhiệt độ; đồng thời bảo vệ da khỏi sự tấn công của vi khuẩn, nấm; có tác giả gọi đây là khả năng tiệt trùng tự nhiên của da. Nấm ngoài da thường mọc ở các vùng không có tuyến bã; các nấm xén tóc trẻ em thường tự nhiên khỏi ở tuổi dậy thì là lúc tăng hoạt động của tuyến bã.
Da có tác dụng ngăn cản sự tác dụng của ánh sáng Lớp sừng không cho ánh sáng có bước sóng 200 nm xuyên qua. Lớp trung bì ngăn cản bức xạ ánh sáng có bước sóng 340-700 nm. Các bức xạ có bước sóng dài gây biến đổi nhiệt làm tăng chuyển hóa. Bức xạ có bước sóng ngắn (tử ngoại) gây ra hiệu ứng quang điện, thay đổi điện tử ở màng tế bào từ đó dẫn đến thay đổi tính thấm. Các sắc tố da cũng có tác dụng ngăn cản tác động của bức xạ ánh sáng bảo vệ các cơ quan dưới da.
Độ toan kiềm (pH) của da là yếu tố quan trọng để chống đỡ với vi khuẩn và nấm, pH của da thay đổi tùy từng vùng, trung bình từ 4,2-5,6. Những vùng da bị kiềm hóa (vùng có nhiều mồ hôi ẩm ướt, các nếp bẹn, kẽ chân, nách…) dễ bị nấm và vi khuẩn tấn công.
Thượng bì còn có nhiều khả năng trung hòa đối với các dung dịch toan hoặc kiềm loãng đặt trên da (khả năng đệm). Trong một số bệnh: nấm da, viêm da tiếp xúc, bệnh eczema và một số bệnh da nghề nghiệp khả năng đệm của da bị giảm.
11.2. Chức năng cảm giác
Hệ thống dây thần kinh dày đặc trong các lớp da giúp cơ thể nhận biết được các cảm giác đau, rát, nóng, lạnh.
Hình 1.2. Sơ đồ phân bố tận cùng thần kinh và các hạt thụ cảm ở da:
- Vật thể Golgi Mazzoni;
- Hạt Meissner;
- Hạt Kraus;
- Hạt Ruffini;
- Hạt Pacini;
- Đầu tận cùng thần kinh tự do.
Các loại cảm giác được tiếp nhận da:
- Vai trò tiếp nhận cảm giác sờ mó, tỷ ép, đụng chạm do các hạt Meissner và Pacini.
- Vai trò tiếp nhận cảm giác tỷ đè bởi các hạt Golgi và Mazzoni.
- Vai trò tiếp nhận cảm giác nóng do hạt Ruffini và cảm giác lạnh do hạt Krause hoặc do thụ cảm nội tạng.
- Vai trò tiếp nhận cảm giác đau do buốt, do các dây thần kinh đảm nhận.
Nhờ có vai trò tiếp nhận cảm giác mà cơ thể có thể thích ứng được với ngoại cảnh và tránh được nhiều yếu tố có hại cho cơ thể từ môi trường.
11.3. Chức năng bài tiết và đào thải
Thông qua các tuyến tiết, mồ hôi và bã nhờn được đào thải qua da thường xuyên nhằm điều tiết nhiệt độ cơ thể, bảo vệ kèm theo thải các chất độc từ trong cơ thể ra ngoài. Có hai dạng bài tiết chủ yếu là bài tiết mồ hôi và bài tiết chất bã:
Bài tiết mồ hôi: trên mặt da toàn cơ thể có chừng 2-5 triệu tuyến mồ hôi. Ngoài nhiệm vụ tham gia điều hòa thân nhiệt, mồ hôi còn có nhiệm vụ thải trừ các chất cặn bã, độc hại, chủ yếu là Urê. Da có vai trò hỗ trợ cho thận trong quá trình tiết mồ hôi và chất bã ra ngoài cơ thể. Thành phần của mồ hôi bao gồm: nước 98-99%; chất hữu cơ 0,6%; muối 0,5%; một tỷ lệ nhỏ các hợp chất có gốc sulfate, phosphate.
Bài tiết chất bã: tuyến bã thường tập trung nhiều nhất ở vị trí mặt, lưng, ngực. Chất bã làm cho da không ngấm nước, giúp biểu bì giữ độ ẩm, lông tóc trơn mượt và chống khổ, ngoài ra chất bã còn giúp cho da chống đỡ với vi khuẩn và nấm. Thành phần chất bã gồm 2/3 là nước, còn 1/3 là acid béo, squalen, cholesteron.
11.4. Chức năng điều hòa thân nhiệt
Đây là chức năng đặc biệt quan trọng của da nhờ sự co giãn mạch máu và bài tiết mồ hôi. Mùa lạnh cơ thể phản ứng bằng cách co mạch máu dưới da, dồn máu vào bên trong, hạn chế tỏa nhiệt, giúp cơ thể giữ ấm. Mùa nóng cơ thể phản ứng bằng cách giãn mạch làm máu dồn ra ngoại vi, tăng tỏa nhiệt, tăng bài tiết mồ hôi giúp làm mát cơ thể.
Nhờ hệ số dẫn nhiệt của tổ chức mỡ dưới da (k = 0,00033) và của lớp sừng (k = 0,000125) tương đối thấp, nền về mùa đông da thường giữ không cho tỏa nhiệt nhiều cũng như cản bớt lạnh ở ngoài vào. Da còn có vai trò chủ động trong điều hòa nhiệt độ, do một loạt phản xạ đi từ các cơ quan thụ cảm nhiệt ở trung bì đến trung tâm điều hòa nhiệt độ dưới ở đồ thị. Da tham gia điều hòa nhiệt độ bằng hai cơ chế chính: ra mồ hôi và phản ứng vận mạch.
Khi nhiệt độ bên ngoài tăng cao, cơ thể phản ứng bằng giãn mạch máu dưới da để tăng tỏa nhiệt, đồng thời tăng tiết mồ hồi và tăng sự bốc hơi, làm giảm nhiệt cơ thể (trung bình tiết 1 lít mồ hôi làm tiêu hao 500 calo). Ngược lại, khi nhiệt độ bên ngoài thấp cơ thể sẽ phản ứng bằng co mạch máu dưới da, giảm tiết mồ hôi, giản tỏa nhiệt trên da.
11.5. Chức năng dự trữ chuyển hóa
Nước: trong cơ thể, nước chiếm 64%, riêng ở da 9%. Nhiều thí nghiệm đã chỉ ra rằng da giữ vai trò rất quan trọng trong việc giữ thăng bằng nước.
NaCl: da dự trữ NaCl khá nhiều. Khi lao động, tiết nhiều mồ hôi thì hàm lượng nước ở da cũng giảm. Khi thận bị tổn thương, chức năng lọc NaCl kém đi, muối sẽ được giữ lại nhiều trong máu và bị đưa ra ngoài qua da. NaCl ứ đọng ở da sẽ kéo theo nước, gây hiện tượng phù nề ở da. Nếu tiêm tĩnh mạch một dung dịch NaCl ưu trương thì da sẽ giữ từ 20-77% số lượng NaCl. Khi con người ăn nhạt, da sẽ mất 60-90% số lượng NaCl. Như vậy, da giữ vai trò rất quan trọng trong việc giữ thăng bằng chất NaCl trong cơ thể.
Dưới tác dụng của tia cực tím cholesteron dưới da được chuyển hóa thành vitamin D, cần thiết cho sự hấp thu Ca ở xương.
Da còn chứa các chất điện giải khác như Ca, K, Mg.
Tỷ lệ glucose tự do trong da thường bằng 2/3 đường huyết. Khi tỷ lệ này tăng cao, thường dễ bị ngứa, nhiễm vi khuẩn, nấm men (moniliase), glycogen dưới da tham gia trong quá trình keratin hóa, glycogen thường tăng trong một số trạng thái viêm. Da chứa rất nhiều loại men như oxydaza, proteaza, hyaluronidaza các men này tham gia vào sự chuyển hóa chất trong cơ thể, hoặc ngăn cản tác động của vi sinh vật, hoặc nấm xâm nhập vào cơ thể. Các chất chalone, chất kháng chal- one liên quan đến việc lành sẹo hay tạo sẹo lồi của da.
11.6. Chức năng tạo keratin và tạo melanin
Tạo keratin và tạo melanin có thể coi là hai chức năng đặc hiệu của tế bào thượng bì trong cấu trúc của da, đồng thời cũng là hai chức năng sơ đằng đảm bảo cho sự toàn vẹn và lành mạnh của da.
Trong quá trình sừng hóa các protein hình cầu của tế bào gai chuyển thành protein hình lá, hình sợi. Quá trình sừng hóa có thể gặp hiện tượng tăng sừng, dày sừng (hyperkeratosis) là sừng hóa mạnh; hoặc loạn sừng (dyskeratosis): Các tế bào sừng còn nhân và chứa đầy các lá sừng. Năng lượng cần thiết cho sự chuyển hóa này là do quá trình phân giải của glycogen ở tế bào gai với phân tử Cu (Đồng) đóng vai trò xúc tác.
Melanin là một protein phức hợp, màu sẫm được hình thành chủ yếu từ tyrosin. Dưới tác động của men tyrosinaza, qua nhiều giai đoạn trung gian chất DOPA chuyển thành mela- nin. Sự sản sinh ra melanin được tiến hành trong các tế bào tua nằm xen kẽ ở lớp đáy của cấu trúc da. Tùy thuộc chủng tộc, tuổi tác, địa lý sự phân bố các sắc tố khác nhau tạo màu da khác nhau.
11.7. Chức năng miễn dịch
Da liên quan mật thiết đến miễn dịch tế bào, có các tế bào có chức năng miễn dịch như tế bào Langerhans, các lympho T, số lượng tế bào này gia tăng nhất là khi có phản ứng miễn dịch xảy ra. Đồng thời các yếu tố sinh học như hòa tan cũng đóng góp vào cơ chế miễn dịch của da.
Khi có kháng nguyên xâm nhập vào da, tế bào Langerhans xuất hiện bắt giữ kháng nguyên, xử lý và trình diện kháng nguyên với lympho bào có chức năng miễn dịch. Bản thân tế bào sừng cũng có vai trò miễn dịch nhờ quá trình tiết ra interferon.
11.8. Sự liên quan giữa da và nội tạng
Da là nơi phản ánh nhiều rối loạn hoặc tổn thương nội tạng, nội tiết: bệnh gan, mật biểu hiện vàng da và niêm mạc; bệnh táo bón, giun sán có thể gây sẩn ngứa, eczema; bệnh lao thận có thể gây sạm da; bệnh rối loạn thiểu năng tuyến yên, giáp trạng có thể gây biến đổi ở da, lông, tóc, móng; thiếu các vitamin cần thiết cho cơ thể có thể gây nhiều biến đổi đặc hiệu trên da.
Tổn thương da có thể ảnh hưởng sâu sắc đến nội tạng và đến sức khỏe chung: bệnh da ngứa mãn tính có thể ảnh hưởng đến thần kinh trung ương, gây suy nhược thần kinh; mụn nhọt, nhiễm trùng da có thể gây nhiễm khuẩn huyết, viêm cầu thận cấp nguy hiểm.
11.9. Chức năng ngoại hình
Da có chức năng quan trọng trong tạo hình thái cơ thể con người. Nắm vững các chức năng sinh lý da cũng có nghĩa đánh giá đúng mức vị trí và vai trò của da trong cấu trúc chung của cơ thể, đồng thời giúp thấy rõ tác hại của các bệnh ngoài da. Khi hiểu biết rõ ràng, giúp con người có thái độ đúng đắn trong chẩn đoán cũng như điều trị dự phòng các bệnh ngoài da, góp phần đảm bảo sức khỏe cho mọi người.
Da là “hàng rào” ngăn cách nội mô với môi trường và giữ cho cơ thể có một hình dạng nhất định. Sự toàn vẹn, lành mạnh của da là yếu tố cần thiết để đảm bảo sức khỏe chung.
1.2. Cấu tạo giải phẩu da
Hình 1.3. Cấu tạo của da
Lớp biểu bì
Là lớp trên cùng dày khoảng 0.1mm và đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc tái tạo tế bào da. Bao gồm: Lớp hạt – Lớp gai – Lớp đáy
Lớp trung bì
Là lớp giữa chứa collagen (tạo sự săn chắc) và elastin (tạo sự đàn hồi cho da). Lớp này còn chứa các Mao mạch, tế bào thần kinh, nang lông, tuyến mồ hôi và tuyến bã nhờn
Lớp hạ bì
Là lớp chứa các mỏ mỡ làm đệm cho các lớp da ở trên
Thành phần của da bao gồm: nước (70%), protein (27%), mỡ (1,5%), carbo-
hydrate (1%), muối vô cơ (0,5%).
Cấu trúc da bao gồm ba lớp chính: lớp biểu bì, lớp hạ bì và lớp mô dưới da. Ngoài ra các phần phụ của da như: nang, tuyến bã nhờn và mồ hôi cũng đóng vai trò trong chức năng tổng thể của làn da.
1.2.1. Biểu bì (còn gọi là thượng bì)
Biểu bì là lớp ngoài cùng của làn da mà chúng ta có thể thấy và chạm vào. Bảo vệ cơ thể khỏi vi khuẩn và chống mất nước. Biểu bì dày khoảng 0,2 mm, có độ dày khác nhau từng vùng. Dày nhất ở lòng bàn chân và mỏng nhất ở vùng quanh mắt.
Lớp biểu bì tính từ ngoài vào được chia thành bốn lớp: lớp sừng, lớp hạt, lớp gai, lớp đáy. Riêng lòng bàn tay và lòng bàn chân thì giữa lớp sừng với lớp hạt còn có thêm lớp trong suốt.
Biểu bì chính là nơi diễn ra chu kỳ thay da – sừng hóa.
Hình 1.4. Mô tả cấu trúc của lớp biểu bì
1.2.2. Chân bì (còn gọi là trung bì)
Hình 1.5. Hệ tuần hòa ở trung bì
Trung bì chiếm đại bộ phận của da, nằm ngay bên dưới lớp biểu bì, giúp cung cấp chất dinh dưỡng cho phần biểu bì. Lớp này đóng vai trò duy trì sự săn chắc, đàn hồi của da.
Về cấu trúc trung bì gồm những thành phần sau:
- Những sợi chống đỡ, sợi tạo keo là những sợi thẳng không phân nhánh cấu tạo bởi những chuỗi polipeptit (khoảng 20 loại acid amin). Sợi tạo keo có thể bị phá hủy bởi men collagenase do vi khuẩn tiết ra. Sợi chun là những sợi lớn hơn có phân nhánh, nó bắt nguồn từ sợi tạo keo. Sợi lưới tạo thành màng lưới mỏng bao bọc quanh mạch máu, tuyến mồ hỏi. Cấu trúc của nó giống hệt sợi tạo keo.
- Chất cơ bản là một màng nhầy gồm tryptophan, tyrosin,… Nó dễ bị phá hủy bởi trypsin.
- Tế bào gồm tế bào xơ hình thoi hoặc hình amip, có tác hại làm da lên sẹo. Tổ chức bào hình thoi hoặc hình sao, nó có thể biến thành đại thực bào đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể. Tương bào tham gia quá trình chuyển hóa heparin, histamin.
- Ngoài các thành phần trên ở trung bì còn có những động mạch, tĩnh mạch, bạch mạch (hệ thống này được bắt nguồn từ các đám rối ở sâu) và hệ thống thần kinh của da.
1.2.3. Hạ bì (còn gọi là mô dưới da)
Hình 1.6. Cấu trúc lớp hạ bì: là nguồn năng lượng dự trữ cho da; là lớp đệm giảm sự va chạm; điều hòa nhiệt độ cơ thể
Lớp này nằm dưới lớp trung bì, có chứa nhiều mỡ nên còn được gọi là mô mỡ dưới da. Hạ bì đóng vai trò quan trọng như một tấm nệm giúp bảo vệ cơ bắp và các cơ quan bên trong, giữ nhiệt. Nó có nhiều ô ngăn cách bởi những vách nối liền với chân bì, trong mỗi ở có mạch máu, thần kinh, tế bào mỡ, tế bào tròn, tế bào sáng.
Mô mỡ có độ dày mỏng khác nhau tùy vị trí. Dày nhất ở vùng bụng, ngực, mông, đùi. Mỏng nhất ở vùng mí mắt, mũi, môi. Mô mở của nữ dày hơn nam, nên cơ thể phụ nữ có đường cong uyển chuyển đẹp mắt. Tuy nhiên, chiều ngược lại là phụ nữ cũng dễ tăng cân béo phì hơn nam giới.
1.3. Phân loại da
1.3.1. Da thường
Hình 1.7. Các loại da phổ biến (Hình minh họa)
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều phương pháp để phân loại da và cho kết quả có thể là 4, 5 hoặc thậm chí là tới 16 loại da. Tuy nhiên, phân loại theo cách phổ biến và dễ nhớ nhất là có bốn loại da cơ bản gồm: da dầu, da khô, da bình thường và da hỗn hợp. Ngoài ra còn có da nhạy cảm.
Đây được xem là loại da có thể nói là đẹp nhất trong các loại da, vì da thường luôn trong trạng thái cân bằng nhất và không có các dấu hiệu của việc nhạy cảm, ửng đỏ, nhờn hoặc là khô bất thường.
Người có làn da thường thì khi lão hóa có xu hướng da sẽ bị khô. Biểu hiện hình thái của da thường:
- Lỗ chân lông nhỏ.
- Lưu thông máu tốt.
- Kết cấu da mịn, mềm và mượt.
- Da đều màu, hồng hào
- Không có khuyết điểm rõ rệt, cụ thể
- Thường không nhạy cảm
Hình 1.8. Kết cấu da mượt như nhung (Hình minh Họa)
1.3.2. Da Khô
Hình 1.9. Da khô có dấu hiệu xỉn màu, sần sùi (Hình minh họa)
Da khô là loại da có tuyến dầu hoạt động rất thấp, nên bề mặt da thường sẽ mất đi lớp “hàng rào” lipid trên da, mất khả năng bảo vệ tự nhiên của da, nên da sẽ rất dễ bị tác động từ môi trường bên ngoài, dẫn đến lượng nước trong da sẽ bị thất thoát và hao hụt.
Biểu hiện hình thái của da khô:
- Bề mặt da căng chặt, bong tróc, da khô sẵn.
- Lỗ chân lông khít, da tối màu.
- Xuất hiện vết chân chim và vết nhăn, thường xuyên có cảm giác căng tức, ngứa da, có thể xuất hiện tàn nhang hoặc các đốm nám nhỏ li ti trên bề mặt da.
1.3.3. Da Nhờn
Hay còn được gọi là da dầu. Da nhờn có thể nói là làn da đẹp nếu da được kiểm soát tuyến bã nhờn và ngăn ngừa vi khuẩn hình thành trong da. Làn da nhờn sẽ giúp tạo lớp rào cản lipid tương đối tốt cho bề mặt da giúp ngăn ngừa tối đa các tác động từ môi trường tấn công vào da, bề mặt da sẽ căng dày và mượt mà. Đặc biệt da nhờn là làn da chậm lão hóa nhất. Có thể coi da nhờn là làn da của sự trẻ trung.
Hình 1.10. Da nhờn, da nhiều dầu. (Hình minh họa)
Biểu hiện hình thái của da nhờn:
- Loại da này, bề mặt da lúc nào cũng bóng dầu.
- Xin màu, lỗ chân lông to.
- Thường xuyên xuất hiện mụn nhỏ li ti, mụn bọc, mụn mủ rải rác khắp bề mặt da.
1.3.4. Da Hỗn Hợp
Làn da này được xem là làn da khó chịu nhất vì có nhiều vấn đề xuất hiện một lúc trên da. Da vừa khô lại vừa dầu.
Biểu hiện hình thái của da hỗn hợp:
- Vùng chữ T dầu (vùng trán, cằm và mũi).
- Lỗ chân lông to ở vùng này và thường bịt kín.
- Hai bên má có da thường hoặc khô.
Hình 1.11. Mụn thưởng xuất hiện ở vùng chữ T với da hỗn hợp. (Hình minh họa)
1.3.5. Da Nhạy Cảm
Đây là kết quả của sự suy giảm lớp rào cản tự nhiên của da, làm cho kết cấu da mỏng và trở nên nhạy cảm hơn với các tác động từ môi trường. Da nhạy cảm là da rất dễ bị ngứa, mẩn đỏ, khô da hoặc dễ bị kích ứng và rất mẫn cảm với sự thay đổi. của thời tiết.
Biểu hiện hình thái của da nhạy cảm:
- Da nhạy cảm có kết cấu da trong suốt, mỏng
- Nhìn thấy được mao mạch trên bề mặt da, xuất hiện giãn tĩnh mạch.
- Da thường ửng đỏ, có nhiệt ấm nóng, có cảm giác căng chặt và ngứa.
Hình 1.12. Các dấu hiệu của làn da nhạy cảm (Hình Minh Họa)
1.4. Câu chuyện của da
Chúng ta không thể làm gì nếu không có làn da bao bọc cơ thể bên ngoài. Nhất là khi da của chúng ta chiếm phần lớn cấu tạo cơ thể và chúng đảm đương nhiều vai trò quan trọng khác. Da bảo vệ chúng ta khỏi thế giới bên ngoài, duy trì nhiệt độ cơ thể, tạo ra vitamin D thiết yếu và giúp chúng ta tương tác với những người chúng ta yêu thương. Nhưng da cũng nhạy cảm cần sự quan tâm và chăm sóc để giữ sức khỏe, giữ gìn vẻ đẹp của làn da.
Qua chương Tổng quan về da, mỗi chúng ta có lẽ đã cơ bản có được những hiểu biết nhất định về chức năng, cấu trúc, sinh lý da, các loại da… Đặc biệt, hiểu đúng về làn da của mình để có cách bảo vệ đúng, kịp thời chăm sóc tốt nhất cho làn da.
Biểu bì chính là nơi diễn ra chu kỳ thay da. Là quá trình phát triển của lớp sừng để tạo nên một làn da mới. Thông thường, ở một người trưởng thành thì một chu kỳ thay da hoàn chỉnh mất khoảng 28-30 ngày: 14 ngày đầu là quá trình hình thành lớp sừng (các tế bào ở lớp đáy phân hóa và di chuyển dần lên tạo thành tế bào ở lớp trên, cuối cùng trở thành lớp tế bào sừng); 14 ngày sau là quá trình bong tróc lớp sừng (tế bào sừng này sẽ già cõi và bong tróc ra khỏi da) để tạo nên một làn da mới.
Nếu chu kỳ thay da chậm, sừng già chết nằm chồng chất lên nhau, da sẽ trở nên thô sần, kém săn chắc. Nếu chu kỳ thay da nhanh, da sẽ trở nên mỏng và dễ mẫn cảm.
Càng lớn tuổi thì chu kỳ thay da này sẽ càng chậm lại, ở độ tuổi 40 trở lên chu kỳ sẽ kéo dài hơn, có thể lên đến 40-55 ngày.
Chính vì thế làn da của người lớn tuổi thường bị xỉn màu, già cõi hơn. Do đó, ở tuổi này, chúng ta đừng quên tẩy tế bào chết thường xuyên để kích thích tái tạo da mới và rút ngắn chu kỳ sừng hóa này. Bên cạnh đó các bước dưỡng ẩm, chống nắng để bảo vệ da cũng vô cùng quan trọng để thúc đẩy cho làn da khỏe mạnh.
Da là cơ quan bảo vệ bên ngoài cho tất cả các bộ phận cơ thể và là cơ quan lớn nhất trong chúng ta. Với vai trò là “hàng rào” bảo vệ đầu tiên của cơ thể, da giữ sự ổn định cho các cơ quan khác bên trong cơ thể trước tác động môi trường từ nhiệt độ, ánh sáng, đến các tác nhân sinh học, lý, hóa.
Vì vậy, làn da rất quan trọng đối với sức khỏe và tinh thần của chúng ta. Bên cạnh việc đóng vai trò là rào cản đầu tiên của cơ thể chống lại vi khuẩn và vi rút, một làn da khỏe mạnh còn duy trì sự cân bằng của các chất và giúp điều hòa nhiệt độ cơ thể. Làn da rất nhạy cảm, cảm nhận được sự va chạm nhẹ nhàng cũng như những tác động mạnh.
Là cơ quan rộng nhất, che phủ gần 2 m và nặng bằng 1/6 trọng lượng cơ thể, tình trạng của da cũng tác động quan trọng lên chính nó. Chuyện gì sẽ xảy ra khi da bị tổn thương?
Làn da khỏe mạnh, không có bất kỳ các vấn đề gì thì sẽ đều màu, cấu trúc mềm mại, đủ độ ẩm, là cơ quan cảm thụ tốt những va chạm, áp lực và nhiệt độ. Khi hàng rào tự nhiên của da bị suy yếu, chức năng bảo vệ và vẻ bên ngoài khỏe mạnh của làn da sẽ bị tổn thương.
Có thể da mất đi độ ẩm, độ đàn hồi và có thể nhìn và cảm thấy khô, thô, nứt hoặc chảy xệ. Có thể da ngày càng trở nên nhạy cảm hơn với các ảnh hưởng bên ngoài (mặt trời, sự thay đổi nhiệt độ) và đặc biệt dễ bị nhiễm trùng.
Làn da bị nhiễm trùng có thể trở nên viêm, các tế bào đề kháng sẽ cố gắng để phục hồi hàng rào bảo vệ bị tổn hại và làm lành sự nhiễm trùng đó. Trong trường hợp mắc các bệnh như viêm da cơ địa và da đầu bị ngứa, các phương pháp điều trị đặc biệt thường được áp dụng để phá vỡ vòng luẩn quẩn khi bị ngứa, nhiễm trùng và giúp tái tạo lại hàng rào bảo vệ tự nhiên của da.
Câu chuyện về da sẽ là câu chuyện “muôn thuở” nếu chúng ta thiếu hệ thống kiến thức về da. Việc nghiên cứu và tìm hiểu về da là điều hết sức cần thiết. Hiểu được các vấn đề của da sẽ giúp chúng ta có cái nhìn đúng về các bước chăm sóc da, cách dưỡng da một cách hiệu quả tối đa vừa an toàn vừa mang lại hiệu quả rõ rệt; cũng như sẵn sàng “ứng phó” với các bệnh lý về da. Mỗi chúng ta hãy thấu hiểu, lắng nghe da của mình để hành động vì làn da khỏe, đẹp.